Diễn đàn Chính sách Nông nghiệp thường niên 2015 với chủ đề “Nền nông nghiệp và người nông dân Việt Nam đối diện thách thức hội nhập” diễn ra ngày 4/11 đã đặt lên bàn nghị sự một loạt những vấn đề nóng bỏng như: tác động của hội nhập đến nông nghiệp Việt Nam, định hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp…
PGs.Ts. Chu Tiến Quang, Tiểu ban Chính sách, Hội đồng KHCN, Bộ NN&PTNT nhận định: “Yêu cầu tập trung đất đang bị phân tán như hiện nay và tiến tới tích tụ (tăng quy mô canh tác/mỗi hộ) để có điều kiện “cần” cho phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa cao đang đặt ra cấp bách nhưng không dễ thực hiện, vì phải “chuyển nhanh” một bộ phận nông dân ra khỏi nông nghiệp, trong khi quá trình này diễn ra rất chậm chạp vì khu vực phi nông nghiệp chưa đủ sức tạo nhiều việc làm để hút lao động nông nghiệp”.
Sẵn sàng “bỏ phố về làng”
Hiện nay, việc phát triển các khu công nghiệp mới chỉ tạo ra việc làm, chưa tạo ra đời sống đô thị “an cư, lạc nghiệp” cho người lao động. Nguyên nhân của tình trạng này được các chuyên gia chỉ ra là do chúng ta chưa xây dựng được các khu dân sinh với các tiện ích công cộng của một đô thị văn minh bên cạnh các khu công nghiệp.
Vẫn còn tình trạng người công nhân phải sống trong các khu nhà ổ chuột, không được hưởng các dịch vụ công như dân đô thị. Cuộc sống bấp bênh ở một số khu công nghiệp khiến người lao động luôn trong tư thế sẳn sàng trở về quê làm ruộng khi có biến động. Vì thế, họ không thể bán hay cho thuê lâu dài đất nông nghiệp ở quê hương.
Do vậy, các chuyên gia cho rằng phát triển công nghiệp và đô thị đã không tạo ra nguồn cung cấp đất nông nghiệp cho thị trường đất đai để tạo ra các trang trại sản xuất nông sản hàng hóa quy mô lớn, áp dụng công nghệ cao, thực hiện GAP, làm ra nông sản bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm với giá cả đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Một lí do nữa được không ít đại biểu tham dự Diễn đàn lưu ý là chúng ta chủ trương và thực hiện đầu tư xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao, thay vì đầu tư phát triển một nền nông nghiệp công nghệ cao. Tất cả các nước phát triển hiện nay đều là những nước có nền nông nghiệp công nghệ cao, dù GDP nông nghiệp chỉ chiếm vài phần trong trong GDP của cả nước. Họ không tạo ra các khu nông nghiệp công nghệ cao để “làm mẫu”, lấy thành tích.
PGs.Ts Vũ Trọng Khải, Nguyên Hiệu trưởng Trường Cán bộ quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn II tại Tp.HCM còn cho rằng Việt Nam không có chiến lược sản phẩm nông nghiêp quốc gia theo vùng nông nghiệp sinh thái, nên những nông sản chủ lực, có khối lượng và giá trị cao hiện nay ở từng vùng nông nghiệp dường như là kết quả của quá trình tự phát.
PGs.Ts Vũ Trọng Khải đưa ra ví dụ cụ thể: “Hiện nay, người dân Philipine mua gạo Việt Nam với giá rẻ, chỉ bằng 2/3 giá gạo tiêu thụ trong nước. Vô tình, nông dân Việt Nam đang phải “bất đắc dĩ làm nghĩa vụ quốc tế về an toàn lương thực”. Đó là kết quả của sự phát triển thiếu chiến lược sản phẩm quốc gia theo vùng công nghiệp sinh thái. Trong khi đó, chúng ta lại say sưa với việc hoạch định chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế tỉnh (thành phố), với tiêu chí GDP tỉnh, cơ cấu kinh tế tỉnh”.
Chỉ 5,2 % số hộ nông dân với gần 6,2 % diện tích canh tác đã tham gia vào các hợp đồng liên kết với các doanh nghiệp trong sản xuất-kinh doanh nông nghiệp.
Nền nông nghiệp “nay trồng mai chặt”
Khi xác định chiến lược sản phẩm quốc gia theo vùng kinh tế – sinh thái, để không phải chạy theo doanh số xuất cảng như hiện nay, một số ý kiến tham luận tại Diễn đàn cho rằng ngành nông nghiệp Việt Nam nên xác định thị trường, khách hàng mục tiêu – tiêu thụ nội địa hay xuất cảng, ở những mức độ khác nhau của mỗi loại nông sản.
Gợi ý này xuất phát từ thực tế là khi hội nhập kinh tế quốc tế, nông nghiệp Việt Nam dường như đang mất phương hướng. Tình trạng nay trồng, mai chặt vẫn đang diễn ra khá phổ biến. Thậm chí biết trồng sẽ lỗ nhưng vẫn phải trồng, vì người nông dân chẳng biết làm gì khác ngoài sản phẩm truyền thống.
Người nông dân vẫn đang sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, áp dụng công nghệ cũ kỹ, vừa cho năng suất lao động và năng suất nông sản thấp, với giá thành sản xuất cao, vừa không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, gây ô nhiễm môi trường. Mỗi nông hộ sản xuất tự phát theo hội chứng đám đông hay theo tín hiệu thị trường của thương lái không phải là mắt xích trong chuỗi giá trị ngành hàng từ trang trại đến bàn ăn.
Ông Đinh Xuân Nghiêm, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cho biết: “Cho đến nay, số lượng hộ nông dân (HND) và số diện tích đất canh tác tham gia vào các hình thức liên kết sản xuất-kinh doanh trong ngành nông nghiệp trên phạm vi cả nước còn rất nhỏ bé. Theo điều tra của Viện IPSARD, chỉ 5,2 % số hộ nông dân với gần 6,2 % diện tích canh tác đã tham gia vào các hợp đồng liên kết với các doanh nghiệp trong sản xuất-kinh doanh nông nghiệp”.
“Chất lượng và hiệu quả của nhiều hình thức liên kết thấp và thiếu tính bền vững do hình thức liên kết theo kiểu “mua đứt – bán đoạn” và qua nhiều cấp trung gian, chưa hình thành các chế tài về chia sẻ lợi ích và rủi ro giữa DN và các HND, dẫn đến tình trạng phá bỏ liên kết khi xảy ra các biến động về giá tiêu thụ nông sản và những biến động về điều kiện sản xuất. Chẳng hạn khi giá thị trường tiêu thụ nông sản cao hơn giá đã ký kết trong hợp đồng thì các HND “phá hợp đồng”, còn khi giá thị trường tiêu thụ nông sản thấp hơn giá đã ký kết trong hợp đồng thì DN “phá hợp đồng” hoặc ép cấp, ép giá đối với HND bán nông sản cho họ”, ông Nghiêm bổ sung.
Tình trạng trên đây đã kéo dài nhiều năm, gây thiệt hại cho cả nông dân và DN và tổn hại đến năng lực cạnh tranh của ngành, nhưng chưa được xử lý rốt ráo và đang đặt ra thách thức lớn về tổ chức lại sản xuất theo các chuỗi giá trị mới có thể nâng cao được hiệu quả và sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
Doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản với công nghệ lạc hậu và kinh doanh theo kiểu “ăn đong”, “có gì mua nấy”, “có gì bán nấy”, không phải là người tổ chức, lãnh đạo chuỗi giá trị ngành hàng. Vì thế, hầu như các mặt hàng nông sản Việt Nam đều không thể có thương hiệu.
Bà Phạm Chi Lan – Chuyên gia kinh tế Sự phát triển của nền nông nghiệp trong thời kì hội nhập cũng là số phận của cả nền kinh tế Việt Nam. Triển vọng hội nhập của Việt Nam rất lớn nhưng liệu chúng ta có đủ sức để nắm bắt, khai thác và hội nhập thì ai là người hưởng lợi chính? Trong nhiều năm qua, ta vẫn tự bằng lòng với những thành tích đạt được mà quên đặt ra câu hỏi vậy người nông dân hưởng lợi được bao nhiêu từ quá trình này? Xuất khẩu gạo thủy sản, cà phê… có thứ hạng cao nhất nhì thế giới, vậy thứ hạng cao đó đã mang lại cái gì cho Việt Nam? Số lượng thì nhiều nhưng giá trị liệu có tương xứng hay không?
PGs.Ts Vũ Trọng Khải – Nguyên Hiệu trưởng Trường Cán bộ quản lý NN&PTNT II tại Tp.HCM Điều nguy hiểm nhất của nền nông nghiệp Việt Nam không phải là sự lạc hậu, mà là khả năng đầu độc cả dân tộc một cách hợp pháp bằng các loại nông sản không an toàn. Nếu không khắc phục được tình trạng này, nông nghiệp chẳng những không tận dụng được cơ hội do hội nhập quốc tế mang lại, mà còn bị những thách thức của tiến trình hội nhập quốc tế nhấn chìm.
PGs.Ts. Chu Tiến Quang – Tiểu ban Chính sách, Hội đồng KHCN, Bộ NN&PTNT Tiến trình hội nhập sâu, rộng đã và đang đem đến nhiều cơ hội lớn cho Việt Nam, trong đó có ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, đi cùng với cơ hội là những thách thức đang tạo áp lực lớn đối với ngành nông nghiệp Việt Nam những năm tiếp theo. Việc nhận dạng và chủ động ứng xử với những thách thức đặt ra sẽ là cách để giảm thiểu các áp lực và tiếp tục phát triển ngành nông nghiệp với các tiềm năng vốn có của nó. |
Phương Nguyên
Nguồn http://thoibaokinhdoanh.vn/